2
Phu nhân đối xử tốt với ta, ta tự nhiên cũng không thể khiến đứa con “báu vật” của bà phải chịu quá nhiều ấm ức.
Nhân lúc đêm tối gió lớn, ta lén trộm chìa khóa từ đường, dẫn Tạ Thiệu ra cửa sau, còn nhét vào lòng hắn một túi bạc, sợ rằng tên này đến chốn thanh lâu lại mất mặt vì không đủ tiền thưởng cho hoa khôi.
“Nhân lúc phu nhân đã nghỉ, mau đi đi. Mùa thu lạnh lẽo, bệnh đau đầu của phu nhân lại tái phát, mấy hôm nữa ngươi quay về, nhớ đừng chọc bà ấy nổi giận nữa.”
Tạ Thiệu hiếm khi nghiêm túc nhìn ta, vỗ vai ta với vẻ thành khẩn: “Phủ này, may mà có nàng trông coi.”
Nếu là người ngoài nhìn vào, e rằng sẽ tưởng Tạ Thiệu sắp ra ngoài làm chuyện quốc gia đại sự gì đó.
Chỉ tiếc rằng, hắn chỉ là đi đến kỹ viện nghe hát, còn dặn dò ta đường đường là vợ hắn phải thay hắn trông coi cửa nhà chu toàn.
Nghĩ kỹ lại, quả thực nực cười vô cùng.
Thành thân ba năm, Tạ Thiệu vậy mà lại coi ta như huynh đệ kết nghĩa.
Như ngay lúc này đây, hắn hỏi ta:
“Lâm Cập Xuân, nàng nói xem, lần đầu tới thăm có nên tặng cho cô nương ấy một hộp phấn son không? Liệu có bị xem là nhẹ nhàng phóng túng quá chăng?”
Ta còn chưa kịp trả lời, hắn đã lẩm bẩm suy nghĩ rồi tự mình kết luận:
“Không được, như vậy không đứng đắn. Cô nương như nàng, chắc chắn phải thích cầm kỳ thi họa. Ta nên tìm một vài bức thư pháp danh gia, như thế mới khiến nàng vui lòng.”
Rồi, đến đây thì ta cũng đã rõ tỏ lòng hắn rồi.
Vị gia này tám phần lại si mê một cô nương nhà ai rồi, nghe giọng điệu thì e rằng lần này lại là một cô gái nhà lành, môn đăng hộ đối thật sự.
Thế thì phiền rồi, con gái nhà đứng đắn ai lại dám gả cho cái hạng công tử ăn chơi như ngươi chứ?
Ta không tiện nói thẳng, sợ làm tổn thương trái tim mong manh yếu đuối của vị gia nhà ta.
Nhưng Tạ Thiệu lại đưa chuyện sang đầu ta: “Nương tử, có thể cho vi phu xin thêm ít bạc không?”
“Hôm trước mẫu thân còn khen nàng có đầu óc kinh thương, chắc chắn biết rõ, những bút tích của danh gia xưa nay đều đội giá trên trời.
“Vi phu hầu bao túng quẫn, không có đến tám chục hay trăm lượng vàng thì không dám đường hoàng tới cửa xin mua.”
“Một trăm tám chục lượng? Lại còn là vàng?” Ta kinh hãi trước độ vung tay quá trán của hắn, giận dữ mắng:
“Sao ngươi không đi cướp luôn đi! Ngươi có biết cả phủ một tháng chi tiêu cũng chưa tới trăm lượng vàng không?
Tạ Thiệu, ngươi chẳng lẽ phải lòng một vị Bồ Tát nào rồi? Muốn dát vàng cho người ta à?”
Tạ Thiệu bị mắng đến tịt ngòi, nhưng vẫn không cam tâm, giơ tay chìa lòng bàn tay ra, làm bộ đáng thương:
“Cho thêm chút nữa đi mà. Không giấu gì nàng, lần này là thật lòng. Nàng vừa nói nàng ấy giống Bồ Tát, đúng thật, nàng ấy có cái khí chất cao cao tại thượng ấy, khiến ta mê mẩn không thôi.”
“Nhất là lúc nàng ấy trừng mắt mắng người, thật khiến ta rung động không thôi.
“Nếu cưới được về nhà, e là lại có mùi vị đặc biệt khác hẳn người thường.”
…Ta sững sờ.
Vị gia này đúng thật là sống sung sướng quá lâu rồi, giờ lại đâm ra thích bị ăn đòn.
Thật không phải hạng người bình thường như ta có thể hiểu nổi.
Nhưng ta đâu phải loại sẽ để mặc hắn tung hoành, tay nắm chặt lấy tay áo, cương quyết không cho thêm đồng nào nữa.
Tạ Thiệu thì khỏi phải nói cái bản tính dẻo dai lỳ lợm, vừa níu tay áo ta năn nỉ khẩn thiết, vừa ra vẻ đe dọa:
“Tiểu Xuân, ta khuyên nàng một câu, tốt nhất đừng có chọc bản gia. Với cái thân nhỏ xíu của nàng, ta đây một quyền đánh bay hai đứa như chơi.”
Ta cũng chẳng phải kẻ chịu lép vế, lập tức giơ tay tung chiêu “Bạch hạc lượn cánh”, đánh cho hắn hoa mắt chóng mặt.
“Bớt khoe mẽ lại đi. Phu nhân còn nói ngươi hư nhược tận gốc, đầu óc thì ngốc, dạy ngươi Thái Cực suốt hai mươi năm, còn chẳng bằng ta mới học có ba tháng.”
“Xì”
Tạ Thiệu bị chọc giận, lập tức xắn tay áo, định nhào lên ăn thua đủ với ta.
Nhưng vừa ngẩng đầu nhìn ra sau lưng ta, hắn lập tức tái mặt, sợ đến mức lùi mấy bước rồi quay đầu bỏ chạy như gió.
Ta quay đầu lại, liền chạm mắt với phu nhân Quốc công đang cầm chổi vung vẩy trong tay. Hai người nhìn nhau một lúc, rồi bật cười thành tiếng.
Phu nhân Quốc công nghe thấy động tĩnh nên mới bước ra, thấy ta ăn mặc phong phanh, liền cởi áo choàng trên người mình, đích thân khoác lên vai ta.
Ta nhớ lần ta phát bệnh hàn chứng, chính là phu nhân đã không tiếc lấy ra củ nhân sâm ngàn năm quý giá nhất trong hồi môn của bà, gắng giữ ta lại một hơi thở.
Đợi ta khỏe hơn một chút, bà lại dạy ta luyện Thái Cực, ngày ngày dùng tổ yến, nhung hươu và những dược phẩm bổ quý giá để dưỡng thân, mới có được sắc diện hồng hào như bây giờ.
Phu nhân đối đãi với ta, ân nặng như cha mẹ tái sinh.
Vậy nên, cho dù Tạ Thiệu có hỗn láo đến đâu, ta cũng giống như phu nhân, chỉ coi hắn như một đứa con mà thôi.
Chỉ là một đứa trẻ hiếu động mà thôi, ta là người lớn, sao có thể chấp nhặt với hắn làm gì.
3
Tiết Hàn Y – từ xưa vốn là ngày tế lễ an ủi người đã khuất.
Sau khi cùng phu nhân Quốc công dâng hương cúng bái tổ tiên nhà họ Tạ, ta trở về viện của mình, tự tay thắp hương đốt giấy tiền vàng mã.
Một phần là để tiễn đưa mẫu thân đã mất sớm của ta.
Phần còn lại là để tiễn đưa vị tiểu tướng năm xưa, người đã từng cùng ta lập thệ ước trăm năm.
Nói ra thì thật nực cười khi còn ở ngoại viện, vì thiếu áo thiếu cơm, tay chân lúc nào cũng lạnh buốt, ta thường vừa ôm lấy thân mình vừa tính xem mình còn sống được bao nhiêu ngày nữa.
Chỉ sợ người còn chưa mất, lương thực ta trồng vẫn chưa kịp ăn hết.
Ta gặp chàng vị tiểu tướng năm xưa vào một ngày xuân nắng ấm.
Sau cơn mưa xuân, ta đã tự tay đào sẵn một ngôi mộ cho mình, trồng vài gốc hoa trên mộ phần, chỉ mong kiếp sau có thể sống lâu hơn một chút.
Trên bia mộ không khắc tên thật của ta, mà là họ của mẫu thân Ôn.
Khắc ba chữ: Ôn Hành Lạc.
Thế gian này, người thật lòng nhớ thương ta, chắc cũng chỉ có một mình A nương mà thôi.
Trên chiếc khăn lụa bà để lại có thêu một câu thơ: “Hành lạc tu cập xuân”Vui vẻ cần kịp mùa xuân.
Kiếp sau, ta không muốn làm thứ nữ nhà Thái úy mang tên Lâm Cập Xuân nữa.
Ta muốn làm một người tự do tự tại, sống đúng như cái tên Ôn Hành Lạc.
Và chính vào ngày hôm đó, ta đã gặp chàng.
Chàng bị thương, nhưng dù toàn thân bê bết máu, vẻ tuấn mỹ ấy vẫn khiến người ta phải ngẩn ngơ kinh diễm.
Cũng chính vào khi ấy, ta đã hạ quyết tâm phải lên giường với chàng cho bằng được.
Nói ra thật tội lỗi, nhưng đúng là ta vì sắc mà khởi tâm, nhân lúc chàng dưỡng thương trong chùa, cố tình quyến rũ.
Ta đã nghĩ thông rồi ta và chàng, e rằng đều chẳng sống được bao lâu nữa.
Thế đạo loạn lạc, người chết sớm ngoài những kẻ nghèo khổ bệnh tật như ta, thì cũng là những tướng quân ra chiến trường liều mạng.
Hai kẻ yểu mệnh, cùng nhau trải qua một đoạn thời gian khoái lạc, thì có làm sao?
Chỉ tiếc, ta tính sai một bước vị tiểu tướng kia, lại là kẻ có khí tiết.
Chắc do gia đình từng cho chàng đi học mấy năm, nên ngay đêm đầu ta trèo lên giường, hắn lại một mực giảng về nhân nghĩa đạo đức, miệng không ngớt câu “xin tiểu thư tự trọng”, khiến ta buồn ngủ đến muốn gục tại chỗ.